Thứ Bảy, 1 tháng 5, 2010

THỦ LĂNG NGHIÊM KINH (Chương 1 )

LỜI NÓI ĐẦU
Kinh Thủ Lăng Nghiêm là một bộ kinh thuộc hệ tư tưởng thượng thừa liễu nghĩa. Từ xưa nhẫn nay, khắp chốn tòng lâm, những hàng long tượng trong giới truy lưu đều xem Thủ Lăng Nghiêm kinh là một trong những bộ kinh then chốt trong nền giáo lý Phật. Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật Đế và Di Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
Mãi đến đời nhà Minh (1366-1661) tư tưởng Thủ Lăng Nghiêm, được các
giới truy lưu, những hàng long tượng để tâm nghiên cứu rầm rộ một thì. Các tiền bối ra sức phát huy diệu lý của kinh. Mỗi Ngài chú giải, sở thích, sáng tác theo sở kiến, sở ngộ của mình. Có những vị phát huy cái thâm cái diệu tàng ẩn trong kinh làm cho sáng tỏ rõ ràng đem lại cho Phật Tử hậu lai nhiều lợi lạc. Cũng có những vị sớ giải mơ màng, gieo vào lòng người con Phật những tư tưởng huyễn hoặc hoang đường, vô phương lý giải. Do vậy, những bậc thạc đức chân tu cùng thời, Ngài Thích Truyền Đăng phải viết ra hai quyển, nhan đề: Lăng Nghiêm viên thông sớ tiền mao. Nội dung để báo động trong giới truy lưu về sự sai lầm của những nhà sớ giải vô tình đã gieo vào lòng nguời con Phật tư tưởng mê tín dị đoan, con đường giải thoát giác ngộ mơ hồ không hy vọng có ngày hiện thực. Trong lời tựa của bộ “Thủ Lăng Nghiêm chính mạch” thì Ngài Chơn Giám cũng than phiền tương tợ !…
Ở Việt Nam ta, từ những thập niên 30 về sau, phong trào chấn hưng Phật giáo, các trường cao cấp Phật học đều dùng bộ Thủ Lăng Nghiêm trực chỉ của Ngài Hàm Thị mà giảng dạy trong giáo trình.
Qua quá trình tu học và nghiên cứu, bỉ nhân tôi, thấy phần “Trực Chỉ” của bộ kinh này, đại cương mà nhận xét, có nhiều ý thú thâm sâu, cũng có thể làm kim chỉ nam cho giới truy lưu giồi mài, tư duy và tu dưỡng có đem lại được những điều bổ ích. Dù vậy, sự bổ ích đó chỉ nghiêng nặng cho giới truy lưu, cho những người dồi dào đức tin đối với Tôn giáo của mình, đức tin đó được khép kín trong chốn tòng lâm “thanh tịnh” cổ kính “u nhàn”.
Cái tâm nhận thức của Tăng tín đồ Phật tử trong xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa ngày nay đòi hỏi nền giáo lý Phật giáo phải khế cơ, khế lý; nghĩa là phải được cụ thể hóa rõ ràng hơn. Phải biến nền giáo lý đó thành một thứ chất dinh dưỡng đem lại cho con người sự bồi bổ, sự ích lợi cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội và đáp ứng yêu cầu tri thức của người đệ tử Phật ngang bằng tầm cỡ của thời đại. Bởi vì, xã hội loài người, vật chất cũng như tinh thần luôn luôn trong tiến trình vận động và chuyển hóa, mà cái gì không tiến tức đã lùi.
Sau 11 năm, ngày miền nam hoàn toàn giải phóng, cuộc diện đất nước Việt Nam hoàn toàn đổi mới. Mới về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, tất nhiên phải mới cả tư tưởng. Nói đến sự kiện này, tôi thành thật không giấu giếm rằng: Tôi rất may mắn, có phúc duyên, tôi được kịp thời và đúng lúc, hòa mình vào xã hội mới để học tập. Tôi tìm học những cái hay cái mới để bồi dưỡng cho kiến thức của mình. Và sự thật, thời gian qua đem lại cho tôi một kết quả rất bằng lòng, và bằng lòng thật sự, bằng lòng trọn vẹn. Tôi vận dụng những kiến thức của thời đại, dung hòa vào cái vốn liếng Phật học sẵn có của mình. Tôi thấy vô cùng sáng tỏ. Rồi vì đàn em hậu tiến trong giới truy lưu vận dụng vào kinh điển trong giáo trình mà mình đã có, tôi viết thành những giáo án Phật học. Việc làm này tôi chưa dám nói là hoàn bị mọi mặt yêu cầu, nhưng sự thật trước mắt là người học
có cái nhìn chính xác hơn đối với lời kinh, ý Phật. Và tự mình gỡ bỏ cho mình những cặp kính ảm đạm mơ hồ, nhìn đâu cũng thấy toàn bộ một màu buồn tẻ hoang đường, huyễn hoặc, siêu hình vô phương lý luận. Tai họa của sự nhận thức sai lầm chơn lý, có nuôi dưỡng trong con người một tâm hồn yếu đuối, làm cho con người mất hết sức tự tin; con người không tin khả năng thành Phật của mình, không tin nổi rằng: mình vốn có Phật tánh. Con người đã mất khả năng tự tin thì suốt cuộc đời mệnh danh là đệ tử Phật nhưng “linh hồn” thì đã gởi gấm cho “đấng siêu nhiên” nào đó ở một thế giới xa xăm ngoài tầm lý luận của trí thức con người. Đó là cái buồn chung cho trong hàng đệ tử Phật lạc lối ngày nay.
Học kinh Thủ Lăng Nghiêm, con người sẽ xác định được vị trí của mình đối với quả vị Bồ Đề Niết Bàn vô thượng. Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni của chúng ta sống bằng “Chơn tâm thường trú” sinh hoạt trong “Thể tánh tịnh minh”. Mà tất cả mọi người đệ tử Phật trong chúng ta đều có “Chơn tâm thường trú” và “Thể tánh tịnh minh” ấy. Chỉ khác nhau ở chỗ:
Còn phiền não khách trần hay phủi hết phiền não khách trần vậy thôi.
Cái từ Trực Chỉ trong giáo án “Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ Đề Cương” nầy không lệ thuộc, không tương quan gì với ý tứ của Ngài Hàm Thị ở thời Minh xa xưa bên Trung Quốc. Mà phần trực chỉ nầy, thể hiện từ quá trình học tập trong thời đại mới với những tư tưởng mà tôi rất bằng lòng như đã nói ở trên.
Để trắc nghiệm sự bằng lòng của mình xem có chủ quan không, tôi đem cái nhận thức mới, vận dụng qua nền giáo lý thậm thâm của Phật, tôi giảng dạy cho Tăng Ni trường Phật học Cao cấp cơ sở I ở Thủ đô Hà Nội, từ năm 1981 đến 1985. Lắng nghe dư luận: Kết quả tốt. Tôi đang thí nghiệm tư tưởng đó ở Trường Phật học Cao cấp cơ sở II ở Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1985 đến nay. Lắng nghe, có kết quả tốt. Tôi giảng cho Tăng Ni và tín đồ Phật tử ở nhiều giảng đường khá đông đảo ở thành phố Hồ Chí Minh trong nhiều năm liên tục. Lắng nghe, đều kết quả tốt.
Nay tôi viết giáo án “Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ Đề Cương” nầy nhằm phục vụ cho đối tượng Tăng Ni sinh Phật học cao cấp. Hiện nay thì tôi đang giảng cho Tăng Ni sinh năm thứ 3 trường Phật học cao cấp cơ sở II tại thành phố Hồ Chí Minh. Dù vậy, trình độ của người Phật tử trí thức ngày nay, có rất nhiều người hâm mộ nghiên cứu học tập tư tưởng liễu nghĩa thượng thừa thâm diệu của kinh Thủ Lăng Nghiêm nầy.
Đã là giáo án, tất nhiên còn phải triển khai hướng dẫn rộng thêm nhiều mặt.
Đã là đề cương thì không thể đòi hỏi ở đây những chi tiết quá rộng rãi ở kinh văn nguyên chất.
Tuy nhiên, Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ Đề Cương tương đối đủ sức giúp cho người đọc nắm lấy cái bâu của áo, xách lên cái giềng của lưới, nghĩa là có thể tiếp thụ được cái ý thú thâm diệu, tư tưởng cốt tủy của lời kinh. Dù vậy, sự nhận thức và tiếp thụ đến mức độ
nào việc đó còn tùy thuộc một phần ở con người nữa; cũng như trông một viên ngọc kim cương, chắc chắn ai cũng thấy biết được sắc màu của viên ngọc, nhưng đánh giá đúng trọn vẹn màu sắc hay không còn tùy ở sự có biết thay đổi hướng đứng hay không để nhìn viên ngọc của chính mình.
Việc phê phán khen chê, tôi đã có dự trù và sẵn sàng hoan hỉ tiếp thu. Trong kinh Niết Bàn, đức Phật kể câu chuyện năm chàng mù sờ voi… Rồi họ ấu đả với nhau, vì trong đó, không có anh nào cho rằng mình không biết rõ con voi thật. Con voi như cây cột, con voi như cái quạt mo, vẫn chưa phải vô lý, kia mà !
Này ! Các bạn ơi ! Tôi đã thấy được con voi thật ! Nó thường phe phẩy hai tai, nó dẫm tới dẫm lui và tỏ vẻ thèm thuồng, muốn xin những lóng mía của khách nhàn du trong “vườn bách thú” ấy.
Viết tại Huỳnh Mai Tịnh Thất
Mùa thu năm Bính Dần
Ngày 23 tháng 09 năm 1986
Pháp Sư: THÍCH TỪ THÔNG
CHƯƠNG THỨ NHẤT TỔNG KHỞI
ĐỀ KINH (trang 11)
Thủ Lăng Nghiêm, Trung Hoa dịch: Nhất Thiết Sự Cứu Cánh Kiên Cố. Đó là tên một đại Thiền định. Hành giả thành tựu được thứ Đại Thiền định này sẽ có sức trí tuệ giác ngộ Cứu Cánh, một nghị lực Kiên Cố đối với hiện tượng vạn hữu, với Nhất Thiết Sự trên cõi đời này.
Đề kinh nầy nói đầy đủ thì có 19 chử: Đại Phật Đảnh, Như Lai Mật Nhơn, Tu Chứng
Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm.
Thủ Lăng Nghiêm là tên gọi tắt qua cái từ trọng tâm 19 chữ của đề kinh.
Đề kinh này gồm cả Nhơn, Pháp và Dụ. Đại Phật Đảnh là dụ. Như Lai Mật Nhân là nhơn, Thủ Lăng Nghiêm là Pháp vậy.
Định Thủ Lăng Nghiêm rất sâu nhiệm, dùng tâm phan duyên thường tình mà nhận thức, thì khó mà thể nhận được định nầy. Ví như đem nhục nhãn nhìn Phật đảnh không sao thấy được trọn vẹn.
Tất cả Như Lai trong mười phương có Bồ Đề Niết Bàn đều do thành tựu đại định Thủ Lăng Nghiêm. Định Thủ Lăng Nghiêm là cái nhân kín nhiệm của tất cả Như Lai, cho nên gọi là Như Lai mật nhân. Nói một cách khác: Thành tựu định nầy đồng nghĩa với thể
nhập Phật tri kiến, Như Lai Viên Giác Diệu Tâm.
Tu chứng định Thủ Lăng Nghiêm là tu chứng liễu nghĩa khác với kinh điển dạy tu chứng bất liễu nghĩa của Nhị thừa. Tu chứng ở đây là tu chứng đến Bảo sở, không như sự tu chứng tạm nghỉ ở Hóa thành.
Thành tựu định Thủ Lăng Nghiêm cũng tức là thành tựu vạn hạnh của chư Bồ Tát. Nói ngược lại: Bồ Tát thể hiện lục độ vạn hạnh được viên mãn là khi Bồ Tát đã có định Thủ Lăng Nghiêm.
Đối tượng cứu cánh của Kinh Thủ Lăng Nghiêm là: Chơn Tâm Thường Trú, Thể Tánh
Tịnh Minh.
Công dụng của Thủ Lăng Nghiêm là hàng phục phiền não trần lao để trở về Chơn Tâm
Thường Trú, Thể Tánh Tịnh Minh ấy.
Mục đích cứu cánh của Thủ Lăng Nghiêm là giải thoát giác ngộ đưa con người từ phàm phu đến địa vị Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Hiểu rõ ý nghĩa của 19 chữ đề kinh là đã nắm được cái tôn chỉ then chốt của toàn bộ kinh rồi vậy.
NHƠN DUYÊN VÀ THỜI ĐIỂM PHẬT NÓI
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
Tạng kinh và công trình kiết tập tạng kinh là do ông A-Nan thực hiện. A-Nan là một thị giả tận tụy luôn luôn thân cận tùy tùng Phật, cho nên được nghe tất cả kinh Phật nói trong mọi thời gian. Ông có thiên tư xuất chúng, được Phật khen là đệ nhất đa văn, ông cũng có một ký ức vượt người thường, ghi nhớ trọn vẹn lời Phật không quên sót. Bốn chữ: Tôi Nghe Như Vầy ở đầu mỗi bộ kinh là lời của ông A-Nan ghi theo di chúc của Phật, nhằm xác minh sự trần thuật của mình, rằng kinh nầy là chính ông nghe Phật nói, chớ không phải ông tự ý đặt ra.
Phật nói kinh Thủ Lăng Nghiêm tại tịnh xá Kỳ Hoàn, trong thành Thất La Phiệt. Chúng tỳ kheo thường tùy tùng Phật có 1.250 người đều là bậc vô lậu đại A-La-Hớn. Đứng đầu trong chúng có các ông Đại Trí Xá Lợi Phật, Đại Mục Kiền Liên, Đại Câu Si La, Phú Lâu Na, Di Đa La Ni Tử, Tu Bồ Đề và ông Ưu Ba Ly. Ngoài ra còn có hàng Bích Chi Phật,
Vô Học và những hàng sơ tâm đồng đến chỗ Phật rất đông.
Bấy giờ vào những ngày mãn hạ và tự tứ của chúng tăng, vì vậy Bồ Tát trong mười phương cũng đến cầu Phật giải quyết những mối tâm nghi trên đường tu tập. Đứng đầu số chúng Bồ Tát là Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử.
Nhằm kết duyên với chúng sanh, làm phước điền cho tín thí, trong những ngày nầy Phật và đại chúng phải chia từng nhóm đi chứng trai ở các nhà thí chủ thỉnh mời. Duy có ông A-Nan đã được mời riêng, đi xa chưa về nên không kịp dự vào hàng tăng chúng.
Trên đường về một mình không có thượng tọa cùng đi, ông A-Nan thứ lớp khất thực đúng phép hóa trai, lòng những mong được một đàn việt cúng dường, không luận giàu nghèo hèn, địa vị giai cấp mà chỉ nhằm làm ruộng phước cho họ gieo hạt Bồ Đề, trồng cây Chánh giác ở tương lai. Ông không muốn rơi vào ý niệm cực đoan mà ông Đại Ca Diếp và ông Tu Bồ Đề từng bị Phật quở: Là Sa môn mà tâm không bình đẳng, còn phân biệt… Xả phú thủ bần…
Một bất trắc xảy đến không ngờ, khi ông A-Nan đi qua nhà nàng Ma-Đăng-Già, một cô gái làng chơi. Ma-Đăng-Già dùng tà chú Tiên Phạm Thiên của đạo Satìcala bắt ông vào phòng riêng dụng ý lẳng lơ, diễn trò má dựa vai kề, nâng niu âu yếm, làm cho ông A-Nan gần mất giới thể.
Phật biết ông A-Nan đang mắc nạn Ma-Đăng-Già đến hồi nguy cấp. Khác với mọi lần thọ
trai xong ở Hoàng Cung của vua Ba Tư Nặc, Phật liền trở về tịnh xá Kỳ Hoàn. Sự kiện lạ thường nầy làm cho vua, quan, trưởng giả và cư sĩ rất đông cùng theo Phật về tịnh xá, hy vọng được Phật dạy cho những pháp yếu mới lạ nào chăng !
Bấy giờ tướng vô kiến đảnh của Phật, phát ra một vầng sáng rực rỡ không gian trong ánh sáng báu có đức Hóa Phật ngự tòa sen báu nghìn cánh, tuyên nói thần chú Thủ Lăng Nghiêm.
“Án A Na Lệ. Tỳ Xá Đề. Bệ Ra Bạt Xà Ra Đà Rị. Bàn Đà Bàn Đà Nễ. Bạt Xà Ra, Bàn
Ni Phấn, Hổ Hồng Độ Rô Ung Phấn, Tóa Bà Ha”.
Phật bảo Bồ Tát Văn Thù đem chú đó diệt trừ tà chú của Ma-Đăng-Già. Đồng thời Bồ
Tát Văn Thù cũng đưa ông A-Nan và nàng Ma-Đăng-Già cùng về tịnh xá chỗ Phật ở.
… Ông A-Nan khóc lóc, trách mình: Từ vô thỉ đến nay, chỉ khuyên lo học rộng nhớ nhiều, mà đạo lực không tự cứu được mình, trong cơn vô minh bất giác… Ông tha thiết cầu xin Phật dạy cho ông pháp Chỉ, Quán và Thiền Na là những phương tiện đầu tiên mà các Như Lai tu hành thành tựu Bồ Đề, Niết Bàn của mười phương chư Phật.
Bấy giờ cùng có hằng hà sa Bồ Tát, Bích Chi, Vô Học và Đại A La Hớn, những người hữu học, đều ngồi chỗ của mình cùng yên lặng nghe lời Phật dạy.
TRỰC CHỈ
Phát tâm tu hành tìm đường giải thoát giác ngộ, văn tư tu là điều rất cần, nhưng chỉ nếu có đa văn, là một học giả thì không đủ đảm bảo an toàn khi vô minh phiền não xâm phạm.
Tà pháp tuy có nguy hiểm, nhưng rồi sẽ bị diệt vong. Chánh sẽ thắng tà. Ánh sáng sẽ quét sạch bóng tối.
Tiên Phạm Thiện là tà chú của đạo Satìcala, diệt trừ tà huyễn, Như Lai dùng Hóa Phật của Vô thượng Chánh Biến Tri Giác nói chú Thủ Lăng Nghiêm để diệt trừ. Đây là ý nghĩa: “Dĩ huyễn Tu huyễn” “Tri huyễn tức ly” ở kinh Viên Giác, Phật dạy đồng với ý ở đoạn kinh nầy.
Ma Đăng Già biểu trưng nhiều dục vọng, nặng luyến ái đam mê. Đại Trí Văn Thù biểu trưng vô phân biệt trí, thứ trí nhìn hiện tượng vạn pháp bằng cái tướng Như Thị của chính nó. Đại Trí Văn Thù đem chú Thủ Lăng Nghiêm hóa giải chú Tiên Phạm Thiên của Ma Đăng Già, có nghĩa là: Tình cảm đen tối thì hãy đem lý trí rực sáng mà rọi vào. Sáng đến thì tối phải đi.
Ông A-Nan gần mất giới thể, nói lên hiện tượng bất giác vô minh chợt đến bất ngờ rất là nguy hiểm. Đại Trí Văn Thù đem chú đến hóa giải được an toàn cho ông A-Nan, điều đó có nghĩa là: Trí huệ sáng đến thì vô minh tan đi. Giác sanh thì mê diệt.
Phật Thích Ca bất động, ngồi nơi tịnh xá Kỳ Hoàn cùng đại chúng, chờ sự chiến thắng ma quân mà không sử dụng sức lực và một thứ khí giới nào. Qua sự kiện đó, người Phật tử phải học: Muốn phá yêu thuật, đánh đuổi ma quân diệt giặc vô minh, phải sử dụng trí lực mà không dùng thể lực, phải vận dụng tâm thanh tịnh mà không thể dùng sức lực của bắp thịt chân tay để đối phó trong trường hợp này.
Do lẽ đó, nội dung kinh Thủ Lăng Nghiêm rất quan trọng ở sự nhận thức:
Chơn Tâm Thường Trú, Thể Tánh Tịnh Minh sẵn có trong tất cả mọi người.
Đọc học kinh Thủ Lăng Nghiêm mà không lý giải, không nhận thức được vấn đề Chơn Tâm Thường Trú, Thể Tánh Tịnh Minh, cũng tức là không biết được đại định Thủ Lăng Nghiêm là gì !
Tụng kinh giả minh Phật chi lý: Học kinh cốt tìm hiểu trong đó Phật dạy những gì. Phật tử chúng ta hãy ý thức mà lưu tâm.
Trang: 1  2  3  4  5  6  8  9  10

SHARE THIS

Author:

Etiam at libero iaculis, mollis justo non, blandit augue. Vestibulum sit amet sodales est, a lacinia ex. Suspendisse vel enim sagittis, volutpat sem eget, condimentum sem.

0 nhận xét:

* Quý vị có thể để lại nhận xét, cảm nhận dưới mỗi bài viết nhưng:
- Không bàn luận đến chính trị của các quốc gia trên thế giới.
- Không được bàn luận hay phỉ báng bất kỳ tôn giáo nào khác.
- Không bàn luận tới sắc tộc gây chia rẽ các dân tộc trên toàn thế giới.
- Không viết những lời thô tục
- Không xúc phạm, chửi bới người khác
- Không đặt liên kết tới những Website đen, có chứa Vi rút hay những phần mềm có chứa mã độc hại
+ Chỉ bàn luận những lĩnh vực liên quan tới Phật Giáo.
+ Hãy giới thiệu Website này tới những người thân, bạn bè của quý vị. Những người không theo, sẽ theo và đã theo Đạo Phật đều có thể xem và tim hiểu trên Website này.
* Hướng dẫn viết nhận xét:
+ Viết nhận xét, cảm nghĩ vào ô bằng Tiếng Việt có dấu
+ Nhận xét với tư cách: Vui lòng nhấp vào lựa chọn trong thanh thả ( Nếu bạn có 1 blog thì hãy đăng nhập, nếu không có thì chọn Ẩn danh)
+ Cuối cùng thì kiểm tra nhận xét và nhấp vào nút: Đăng Nhận xét
* Trân trọng cám ơn!