Thứ Bảy, 1 tháng 5, 2010

THỦ LĂNG NGHIÊM KINH (Chương 10 )

CHƯƠNG THỨ MƯỜI
I – NHỮNG NHẬN THỨC SAI LẦM THUỘC PHẠM VI HÀNH ẤM
A Nan ! Thiền giả tu tập tam ma đề khi tưởng ấm đã hết thì những tư tưởng bình nhật của người đó đã diệt hết; lúc ngủ, khi thức luôn luôn được giác chiếu rỗng lặng như hư không trong sạch. Những mộng tưởng thô trọng không còn; Nhìn xem cảnh vật, núi, sông, đất liền như một tấm gương trong sáng, đến đi không vướng mắc, qua lại bặt dấu chân, chỉ còn một tánh tinh chân tịch tĩnh. Căn nguyên của mọi hiện tượng sanh diệt từ đây phô
bày trước mắt. Bấy giờ thiền giả thấy rõ 12 loại chúng sanh trong thế giới mười phương; dù chưa thấu suốt manh mối của mỗi chúng sanh, nhưng đã thấy được cơ sở sanh diệt của các chủng loại như bóng dã mã nhấp nhóng hiện ra như mờ như tỏ, chưa xác định rõ
ràng. Đó là phạm vi hành ấm.
Chừng nào những hình bóng lăng xăng như bóng dã mã kia được đứng lặng hoàn toàn như mặt nước ao thì đó là biểu hiện hành ấm đã vượt qua rồi, thiền giả lúc bấy giờ từ bỏ hết chúng sanh được.
A Nan ! Ông nên biết, thiền giả có được sự hiểu biết đúng đắn, chánh tâm tỉnh trụ trong xa ma tha tam ma bát đề thì mười loại thiên ma thuộc thức ấm kia không còn có cơ hội khuấy phá được nữa. Nhưng trong lúc tư duy nghiên cứu nguồn gốc sinh loại, nghiên cứu
đến tột cùng, bấy giờ đầu mối sanh diệt chuyển động lăng xăng u ẩn của sự vật hiện tượng kia, rồi móng tâm cân nhắc so đo và cuối cùng chấp cho đó tánh bản nguyên của vạn pháp. Do đó, họ sa vào chỗ nhận thức sai lầm, chủ trương: “Vô nhân luận” với hai luận cứ sau.
Một là, theo sự thấy biết của họ thì tất cả chúng sanh không có nguyên nhân, tự nó sanh ra kể từ tám muôn kiếp trở lại đây mà thôi. Tùy theo dòng nghiệp báo, có thể chết đây sanh kia xoay dần trong đó, ngoài tám muôn kiếp thì vạn vật “vô nhân”.
Hai là, họ cho rằng tất cả chúng sanh không có nguyên nhân cuối cùng. Theo chỗ thấy biết của họ thì người sanh người, chim sanh chim, quạ thì đen, hạc thì trắng, loài người đứng thẳng sống, loài thú lưng nằm ngang, màu trắng của hạc không do tẩy, màu đen của quạ không do nhuộm; suốt tám muôn kiếp vẫn không hề dời đổi; đời nầy đời khác vẫn như vậy, xưa nay cứ theo qui luật cũ mà lập đi lập lại. Do đó, họ cho rằng họ không hề thấy có gì là Bồ đề, thì làm sao có vấn đề thành đạo Bồ đề, có chứng có ngộ. Quả là mọi sự vật “Vô nhân”.
Do những kiến chấp như thế bỏ mất tánh chánh biến tri, lạc vào tà giáo ngoại đạo, đốt cháy hạt giống Bồ đề. Đó là bọn ngoại đạo thứ nhất, chủ trương “VÔ NHÂN LUẬN”.
A Nan ! Lại có hạng thiền giả trụ trong tam ma đề, tâm đứng lặng rỗng rang, chuyên chú tìm xét nguồn gốc các loại chúng sanh, họ thấy cái tánh chuyển động luôn luôn không ngừng, bèn khởi sanh ý niệm chấp “thường”, họ chủ trương cái thuyết vạn vật “vĩnh viễn thường” của bốn luận cứ:
Một là: Tâm và cảnh vốn không có nguồn gốc. Tuy nhiên tất cả thập phương chúng sanh, sanh ra và diệt đi, sanh diệt diệt sanh trong vòng hai muôn kiếp thì không hề tan mất. Do đó họ cho sinh loại là “thường”.
Hai là: Họ thấy tứ đại là thường còn, thập phương chúng sanh dù có sinh có diệt, tuy nhiên trong phạm vi thời gian bốn muôn kiếp xoay dần sanh diệt nhưng bản thể không hề tan mất. Vì vậy, họ chủ trương trong sinh loại là “thường”.
Ba là: Họ cho tứ đại thường còn, trong phạm vi bốn muôn kiếp, thập phương chúng sanh dù có sinh diệt, nhưng bản thể thường còn không hề tan mất. Do vậy, họ chủ trương vạn vật là “thường”.
Bốn là: Họ xét tội bản lai của sáu căn, của sự chấp thọ, của ý thức của mạt na thức, A lại da thức tánh vẫn thường. Vì vậy, trong phạm vi tám muôn kiếp, tất cả chúng sanh trong thập phương dù có sanh có diệt, nhưng bản thể vẫn thường. Vì vậy, họ chủ trương vạn vật là “thường”.
Do những chấp mắc sai lầm hạn hẹp trong phạm vi thấy biết của họ, mà bỏ chánh biến
tri, lạc vào ngoại đạo, mai một tánh Bồ đề. Đó là loại ngoại đạo thứ hai chủ trương “Viên thường luận”.
Lại có thiền giả trụ trong tam ma đề, chánh tâm đứng lặng, tìm xét nguồn cội các loại chúng sanh và cái tánh chuyển động kín nhiệm liên tục của sự vật, họ cân nhắc so đo và sanh kiến chấp giữa mình và cái khác. Do kiến chấp sai lầm điên đảo, họ chủ trương: “một phần thường, một phần vô thường” qua bốn luận cứ!
Một là: Họ quán cái tâm của họ là tâm nhiệm mầu sáng suốt đứng lặng cùng khắp mười phương thế giới; họ cho đó là cái thần ngã là cái “ta” cứu kính. Do đó họ chấp có cái ta nhiệm mầu sáng suốt đứng lặng cùng khắp mười phương không lay động. Còn tất cả chúng sanh thì ở trong tâm ta tự sanh tự chết. Vậy tâm tánh của “ta” là thường còn những bọn chúng sanh kia thì là vô thường.
Hai là: Hạng thiền giả không quán xét cái tâm mà chỉ quán xét cõi nước trong hằng sa quốc độ. Họ thấy có chỗ bị thiên tai địa chấn hủy hoại, họ kết luận đó là tánh rốt ráo vô thường; còn những chỗ không bị kiếp tai phá hoại thì họ bảo đó rốt ráo thường.
Ba là: Hạng quán xét cái tâm, cho rằng tâm mình tinh vi nhỏ nhiệm giống như vi trần lưu chuyển trong mười phương mà không bị biến chất, lại có thể gá hợp với thân, sanh rồi diệt, diệt lại sanh mà vẫn thường còn. Đó là tánh thường; còn sự sống chết diệt sanh từ
cái tánh ấy sanh ra thì gọi là vô thường.
Bốn là: Hạng thiền giả họ biết được cái lúc tưởng ấm của họ hết và đồng thời họ cũng biết họ còn đang ở trong phạm vi của hành ấm. Do đó họ chấp cho hành ấm là tánh thường, còn sắc, thọ, tưởng ấm đã hết, họ cho đó vô thường.
Chủ trương “một phần thường, một phần vô thường: như thế phát xuất từ hiểu biết hạn hẹp đối với chân lý, cho nên sai lầm, vì cái nhận thức chân lý của họ chỉ ngang tầm cỡ đó chưa vượt lên được nữa, họ lầm mất tánh Bồ đề. Đó là hạng người đạo thứ ba, lập luận: “một phần thường, một phần vô thường”.
Lại có hạng thiền giả trong tam ma đề nghiền ngẫm cội nguồn hiện tượng vạn hữu, bỗng sanh tâm chấp mắc về phạm vi. Bằng vào sự hiểu biết của mình họ dựng lên thuyết: Hữu biên vô biên luận, qua bốn luận cứ như sau:
Một là, Họ cho là cội gốc sanh tử thì lưu chuyển tương tục không ngừng, rồi chấp quá khứ và vị lai là hữu biên. Còn cái tâm chịu sự sanh tử tương tục là vô biên.
Hai là: Theo họ, trong tám muôn kiếp trở lại, thấy có chúng sanh, còn trước tám muôn kiếp thì bằng bặc không nghe thấy gì. Họ cho rằng chỗ không nghe thấy là vô biên; còn chỗ có chúng sanh là hữu biên.
Ba là: Họ cho rằng họ có cái biết cùng khắp, họ được tánh vô biên; các người khác sanh ra trong cái biết của họ nên chỉ có tánh hữu biên.
Bốn là: Hạng thiền giả đã diệt hết hành ấm, theo tri kiến của họ, thì thân của chúng sanh có một nửa sanh, một nửa diệt, còn các hiện tượng sự vật của thế gian có một nửa hữu biên, một nửa vô biên.
Do sự chấp, mắc sai lầm như thế rơi vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ đề. Đó là loại ngoại
đạo thứ tư chủ trương: Hữu biên vô biên luận.
Lại có thiền giả trụ tam ma đề trong lúc nghiền ngẫm cội gốc sanh diệt của hiện tượng
vạn hữu, bỗng sanh kiến giải sai lầm chấp mắc điên đảo. Họ dựng luận thuyết “Bất tử càn loạn” với bốn luận cứ:
Một là: Hạng thiền giả trong lúc quan sát về cội nguồn biến hóa, họ thấy: cái có dời đổi thì gọi là biến; cái gì tương tục thì gọi là thường; chỗ thấy được thì gọi là sanh; chỗ không thấy được gọi là diệt; chỗ tương tục gọi là thêm; chỗ có tiếp giáp của sự tương tục gọi là bớt; chỉ sự vật sanh ra gọi là có; chỗ tương đối không có gọi là không. Do kiến chấp như vậy, cho nên có ai cầu pháp hỏi nghĩa lý về đạo, họ đáp: Ta nay cũng sanh, cũng diệt; cũng có mà cũng không; cũng thêm và cũng bớt. Lúc nào cũng nói lộn quanh khiến cho người nghe không sao hiểu được. Rồi lầm tưởng là mình thấp thỏi còn vị ấy thuyết pháp quá “cao siêu” !
Hai là: Hạng thiền giả chuyên chú xa ma tha tam ma bát đề, nhưng chưa rõ thấu chân lý “không”; Họ cho rằng nhân cái không mà được chứng đạo, họ chỉ đáp bằng một chữ “không”. Ngoài tiếng không, họ chẳng biết gì nữa.
Ba là: Hạng thiền giả sai lầm về chân lý “có”. Họ cho tất cả đều có và do nhận biết vạn pháp là có mà được chứng đạo. Vì vậy, nếu có ai hỏi đến đạo, họ chỉ đáp một chữ “có”. Ngoài chữ có, không còn nói được gì nữa.
Bốn là: Hạng thiền giả chấp ngoại cảnh vừa có vừa không. Vì hoang mang trước cảnh, nên tâm cũng rối loạn. Nếu có ai đến hỏi về đạo lý, họ đáp rằng: vạn vật “cũng có tức là cũng không; trong cái cũng không, không phải là cũng có”. Chúng nói một cách rối loạn càn bậy không sao đúc kết được vấn đề. Do những thứ chấp mắc rối loạn càn bậy như thế mà lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ đề. Đó là loại ngoại đạo thứ năm, chủ trương lập ra bốn thứ lý luận “Xà quần” gọi là: “Càn loạn bất tử luận”.
Lại có hạng thiền giả chuyên chú Xa ma tha tam ma bát đề, chánh tâm đứng lặng trong lúc tư duy tìm xét nguồn gốc các sinh loại, bỗng tâm chấp mắc khởi lên, chủ trương cho rằng có dòng sanh diệt vô tận cho nên sau khi con người chết còn có cái tướng diệt sanh vô tận. Họ mê chấp kiến giải sai lầm của mình: Sắc là ta; ta là sắc; Sắc thuộc về ta; ta ở trong sắc. Đối với thọ, tưởng, hành cũng theo lối lý luận như vậy thành ra 16 tướng. Dó chấp mắc như vậy, lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ đề. Đó là loại ngoại đạo thứ sáu chủ trương “Ngũ ấm sau khi chết còn có tướng”.
Lại có hạng thiền giả an trú trong tam ma đề, đứng lặng vọng tưởng, tìm xét nguồn gốc sinh loại, bỗng sa vào điên đảo khởi chấp: Sau khi chết không có tướng. Họ cho rằng sau khi chết sắc chẳng còn tồn tại, thọ, tưởng không còn chỗ để tác động gá nương. Vì vậy, sau khi chết không còn có tướng cho đến nhân quả cũng không, Niết bàn cũng không, chỉ có danh tự, kiến chấp như vậy, lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ đề. Đó là loại ngoại đạo thứ bảy lập luận: Sau khi chết không còn tướng.
Lại có hạng thiền giả sai lạc vào tà chấp: cho rằng cái có và cái không tự nó đánh đổ nhau. Do vậy, họ lập luận: Sau khi chết không phải có, không phải không. Kiến chấp sai lầm đó khiến cho người tu thiền mờ tịt đường, sau rơi vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ đề. Ấy gọi là loại ngoại đạo thứ tám lập luận: Sau khi chết không phải có, không phải không.
Lại có hạng thiền giả tu tập tam ma đề bỗng khởi sanh kiến chấp đoạn diệt. Họ cho rằng: hết thân nầy là diệt; ngũ dục là diệt, hết khổ là diệt; tột vui là diệt, xả hết là diệt; chấp xoay dần bảy cách đoạn diệt. Do kiến chấp sai lầm, lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ đề. Đó là loại ngoại đạo thứ chín, lập luận: Sau khi chết là dứt hẳn.
Lại có hạng thiền giả trong tam ma đề chánh tâm đứng lặng, trong lúc tìm xét nguồn gốc sinh loại đến chỗ u ẩn, bỗng sanh tâm chấp: “Sau nầy còn có”. Dựa vào kiến giải đó, họ chủ trương: Niết bàn luận có năm thứ:
Một, Dục giới là Niết bàn, vì qua sự thấy biết của họ Dục giới vẫn có những sự trong sáng đáng yêu và Dục giới là cơ sở chuyển sanh tử ra Niết bàn.
Hai, Sơ thiền là Niết bàn, vì cõi Sơ thiền không còn ưu thọ. Ba, Nhị thiền là Niết bàn, vì cõi Nhị thiền không còn khổ thọ. Bốn, Tam thiền là Niết bàn, vì cõi Tam thiền rất vui đẹp.
Năm, Tứ thiền là Niết bàn, vì Tứ thiền đã dứt hết khổ và vui. Họ cho rằng đạt đến cõi Tứ
thiền không còn sinh tử luân hồi.
Những cõi trời đó được quả báo an lạc có mức độ, là phước báo hữu lậu, chưa phải là cảnh giới thù thắng thanh tịnh của bậc Thánh hiền. Vì lầm chấp năm thứ Niết bàn phi chân lý nên sa vào ngoại đạo, sai mất tánh Bồ đề. Đó là loại ngoại đạo thứ mười, lập luận điên đảo, chấp trong ngũ ấm có năm thứ Niết bàn.
A Nan ! Mười thứ hiểu biết điên rồ trong Thiền na như vậy là do hành ấm và dụng công chuyển hóa giữa vọng và chân giao tranh nhau mà sanh ra; chúng sanh mê muội không biết, gặp những cảnh như vậy cho rằng mình được chứng đắc Thánh quả sanh tâm ngạo mạn, khoác lác, khoe khoan với ý đồ mê hoặc, bịp bợm người mộ đạo để hổng tom góp lợi dưỡng thỏa mãn hư danh. Hạng ngu si như thế chỉ gạt được những người có tâm mộ đạo mà thiếu học đạo thôi. Với nhãn quang của người trí tuệ tham cứu tinh thường tam tạng giáo điển, nghe qua đã biết cửa địa ngục mở rộng để chờ đón bọn vô minh hắc ám chỉ biết có lợi dưỡng nầy.
Sau Như Lai diệt độ, A Nan ! các ông là những trưởng tử Như Lai phải truyền bá chánh pháp, khiến cho những người ham mộ Bồ đề, Niết bàn hiểu rõ những sai trái nói trên. Có như vậy mới thẳng tiến trên đường Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mà không sợ lạc lầm.
II – NHỮNG NHẬN THỨC SAI LẦM THUỘC PHẠM VI THỨC ẤM
Phật bảo ! Nầy A Nan ! Người chuyên tu xa ma tha tam ma bát đề, đến khi Hành ấm hết rồi thì những nguyên nhân luân hồi từ nghiệp thô đến tế gần như bặc hẳn; với quả giải thoát giác ngộ người nầy bước đến chẳng còn xa, ví như gà gáy canh năm, nhìn về phương đông đã có hừng sáng ở chân trời. Ở giai đoạn nầy, thiền giả sáu căn rỗng lặng không còn rong ruỗi trần cảnh, nội tâm ngoại thân đều trong sáng, thể nhập tánh vô sở nhập. Thấu suốt nguồn gốc của sinh loại. Thấy biết được tánh tổng quát của thế giới, chỉ còn phần tinh vi u uẩn chưa tận tường. Đó là trạng thái của thiền giả đang còn ở trong phạm vi của thức ấm.
Cho đến khi sáu căn viên dung, hổ dụng, bấy giờ thân tâm và mười phương thế giới trong sáng như ngọc lưu ly. Đó là hiện tượng biểu hiện của thiền giả đã hết thức ấm và vượt
qua mạng trược. Bấy giờ tìm xét lại nguồn gốc của mọi mê lầm thì tất cả chỉ là vọng tưởng điên đảo như huyễn hóa chẳng có gì.
A Nan ! Thiền giả hết thức ấm vượt qua mạng trược, đã diệt được cái quan niệm sanh diệt nhưng chưa đạt đến cái vui tịch diệt, lục căn của người nầy thông suốt, cái hiểu biết của họ dung lặng rỗng thông cùng 10 loài chúng sanh trong mười phương. Dựa trên sự hiểu biết rộng rãi bao quát đó, họ lập ra cái luận thuyết gọi là “nhân chân thường” và chấp mắc nơi đó nên trở thành bè bạn của Sa tỳ Ca la chấp có Minh đế, mê muội Bồ đề Phật,
bỏ mất chánh tri kiến. Đó là bọn ngoại đạo thứ nhất chủ trương: có tâm năng đắc và có cái sở qui.
Lại có thiền giả ở trong tam ma đề, tâm tánh sáng suốt rỗng rang gần đến chỗ viên mãn, bỗng cảm thấy cảnh đối tượng sở qui mà mình cần phải nương tựa. Rồi tự nghĩ rằng: thân tâm mình từ chỗ kia sanh ra, thập phương hư không và thế giới đều từ nơi thân của mình mà sanh ra, do vậy sa vào cái chấp “năng phi năng”, thành bạn bè với bọn Ma hê thủ la, hiện ra thân vô biên, mê muội Bồ đề Phật, bỏ mất chánh tri kiến, đó là loại ngoại đạo thứ hai, lập cái “tâm năng vi” thành cái quả “năng sự” trái ngược Bồ đề Niết bàn, sanh ra giống Đại mạn thiên, chấp có “cái ta” khắp cùng pháp giới.
Lại có thiền giả, trong tam ma bát đề chuyên chú bỗng thấy có chỗ “sở qui”, rồi nghĩ thân tâm mình từ chỗ kia sanh ra và cả thập phương hư không cũng từ chỗ kia sanh ra; rồi nhận “cái chỗ kia” ấy là cái thể chân thường không sanh diệt lại chấp cho là thường trú, chẳng những lầm tánh bất sanh mà cũng lầm cả tánh sanh diệt; cho nên bị rơi vào cái
chấp “thường phi thường”, thành bè bạn những kẻ chấp có Tự tại thiên, mê muội Bồ đề Phật, bỏ mất chánh tri kiến. Đó là loại ngoại đạo thứ ba, lập cái tâm nhân y thành cái quả vọng kế, trái với cái nhân Bồ đề Niết bàn sanh ra giống điên đảo.
Lại có thiền giả, định tâm trong sáng, an trú tam ma đề bỗng nảy sinh sự hiểu biết khắp cùng và cho rằng: cỏ cây trong vũ trụ cũng vẫn là hữu tình, giống như con người không khác. Rằng cỏ cây làm người, người làm cỏ cây; thế là bị rơi vào cái chấp “tri vô tri” thành bè bạn với bọn Ba tra tiển ni chấp tất cả đều có hay biết, mê muội Bồ đề Phật. Đó là bọn ngoại đạo thứ tư, chấp cái tâm “viên tri”, thành cái quả thố mậu, trái tánh Niết bàn sanh ra giống Đảo tri.
Lại có thiền giả chuyên chú tam ma đề, thân tâm thanh tịnh các căn có thể dùng thay thế cho nhau (lục căn hỗ dụng) bỗng dưng phát sanh cái ánh sáng của hỏa đại, ưa thích cái tánh thanh tịnh cái tánh sáng của hỏa đại, ưa thích cái tánh thanh tịnh của thủy đại, yêu quí cái chu lưu của phong đại, nghiền ngẫm cái thành tựu của địa đại rồi sùng phụng mỗi thứ, nhận tứ đại kia là bản thân và cho đó là tánh thường trụ, rơi vào cái chấp “sinh vô sinh”, thành bè bạn của bọn Ca diếp ba và bọn Bà la môn đem hết thân tâm thờ lửa, thờ nước để cầu ra khỏi sanh tử. Đó là hàng thiền giả mê muội chánh tri kiến, lầm lạc đường Bồ đề, thuộc hàng ngoại đạo thứ năm, lập cái nhân hư vọng cầu cái quả giả huyễn, đi ngược dòng Niết bàn sanh ra giống điên hóa (điên đảo cái lý sinh hóa của hiện tượng vạn pháp).
Lại có thiền giả tự trụ tam ma đề tâm thanh tịnh rỗng thông bỗng khởi cái tâm chấp “trống rỗng” phủ nhận sự biến hóa của vạn vật, lấy cái tánh đoạn diệt làm chỗ nương tựa của mình; thế là sa vào cái chấp “Quy vô quy”, thành bè bạn với bọn chấp không trong vô tưởng thiên, mê muội Bồ đề Phật, bỏ mất chánh tri kiến. Đó gọi là bọn ngoại đạo thứ sáu, chìm đắm trong tâm hư vô, lập ra cái quả trống rỗng đi ngược dòng Niết bàn, sinh giống đoạn diệt.
Lại có thiền giả trụ trong tam ma đề tâm được đứng lặng sáng suốt, bỗng khởi lên ý niệm muốn củng cố cái thân, làm cho cái thân trở thành chân tường bất hoại, ý niệm phi chơn lý, khiến cho thiền giả rơi vào cái chấp “tham phi tham”, thành bè bạn của A tư đà, một vị Tiên tham vọng trường sanh, mê muội Bồ đề Phật, bỏ mất chánh tri kiến. Đó là loại ngoại đạo thứ bảy tham chấp cái mạng căn, lập cái nhân củng cố vọng thân để cầu cái quả kéo dài lao khổ, trái tánh viên thông đi ngược đường Niết bàn, sinh ra giống vọng điên.
Lại có hàng thiền giả trong tam ma đề nghiền ngẫm tánh không của các hành pháp, bỗng khởi tâm muốn giữ trần lao vì sợ trần lao tiêu hết. Bấy giờ thiền giả vận dụng đạo lực hóa hiện tự thân ở Liên hoa cung, thất bảo huy hoàng, cực kỳ tráng lệ; tai hóa hiện ra nhiều
gái đẹp xinh để cùng vui hưởng thụ thỏa mãn tâm buông lung. Sự đam mê đó khiến cho hành giả sa vào cái chấp “chân vô chân”, thành bè bạn của bọn Tra chỉ la mê muội Bồ đề Phật, mất hết chánh tri kiến. Đó là loại ngoại đạo thứ tám, lập cái nhân tà tu thành cái quả xí trần (sợ trần lao bị tiêu hết).
Lại có thiền giả an trú trong xa ma tha tam ma thiền na tham cứu xét tột tánh không của các hành pháp nhưng chưa đạt đến chỗ tịch diệt viên mãn, ở nơi thể viên minh nguồn gốc của sinh mạng sanh ra ý niệm phân biệt cái thô, cái phần chân, phần ngụy nghĩa là nhận
rõ về khổ đế, đoạn trừ tập đế, cầu chứng diệt đế, thực hành đạo đế. Khi chứng diệt đế rồi, không cầu tiến thêm và bằng lòng cho đó là cái đích cứu cánh sở đắc của mình. Người khởi chấp như vậy gọi là định tánh Thanh Văn, thành bè bạn của Vô văn tăng, vướng
phải bệnh tăng thượng mạn, mê muội Bồ đề Phật, mất hết chánh tri kiến; đó là bọn thứ chín mong cầu cái tâm ứng nghiệm viên mãn thành cái quả thú tịch diệt, trái với tánh viên thông, ngược lại đường Niết bàn sinh ra hạng người triền không.
Lại có thiền giả ở trong xa ma tha tam ma bát đề, rõ suốt được tánh không của các hành pháp, bấy giờ ở trong tánh giác minh thanh tịnh, phát minh tánh thâm diệu rồi nhận đó là Niết bàn, không có tâm cầu tiến, thế là sa vào hàng định tánh Bích chi, thành bè bạn của hàng Duyên giác, Độc giác. Nếu trụ ở đây, không phát tâm hướng thượng đại thừa thì
mất đi chánh tri kiến, mê muội Bồ đề Phật, trở thành bọn thứ mười họ thành tựu được giác tâm vắng lặng lập ra cái quả trạm nhiên, trái với tánh viên thông, đi ngược đường Niết bàn vô thượng sinh ra một hạng giác ngộ viên minh nhưng không tiêu hóa được cái tánh viên minh sở qui.
A Nan ! Mười thứ thiền na như vậy, người tu hành giữa lúc đang tinh tấn say mê bỗng có thể hóa điên cuồng đãng trí, vì đam mê theo cái vọng kiến trong lúc dụng công. Những cảnh giới, những cái thấy biết trong thiền na chưa phải là cảnh giới tối hậu cần đạt đến. Thiền giả nhận thức sai lầm chỗ chưa đủ cho là đủ, khởi tâm năng đắc, được cảnh sở chứng, tưởng đó là cảnh giới Vô thượng Bồ đề, tự cao tự mãn cho rằng mình đã chứng Thánh quả, mắc tội đại vọng ngữ. Khi nghiệp báo hết rồi phải sa vào địa ngục; còn hàng Thanh văn, Duyên giác thì không tiến lên được nữa.
A Nan ! Sau Như Lai diệt độ, các ông hãy trân trọng ghi nhớ lời dạy của Phật, đem
những pháp môn Như Lai dạy truyền bá, khiến cho chúng sanh đời sau những người phát tâm tu Thiền na biết rõ những cảnh giới hư vọng hiện ra trong lúc tu thiền và những tư duy lệch lạc, những chấp mắc sai lầm cho ngũ ấm ma vọng khởi. Người tu tập thiền na phải luôn luôn đề cao cảnh giác mới tránh khỏi các thứ ma tà kiến ấy nhiễu hại mà hoang phí một đời tu. Các ông phải sáng suốt giữ gìn thân tâm, nắm giữ chánh tri kiến của Phật, từ lúc ban đầu cho đến khi thành tựu, không dễ đi lạc vào các con đường tẻ của ngoại
đạo, do lầm chấp và đam mê theo vọng cảnh tà kiến bởi sự “che phủ” của các ma ngũ ấm.
Các Như Lai trong mười phương đã vận dụng trí tuệ ba la mật, khéo léo vượt qua mà thẳng tiến đến Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Chừng nào thức ấm hết rồi thì hiện tiền sáu căn sẽ trở thành hỗ dụng, có thể thay thế cho nhau, bấy giờ hành giả sẽ lên bậc kim cang. Càn tuệ Bồ tát. Cái tâm trong sáng tròn đầy được tỏ rõ như mặt trăng dằn dặc ảnh hiện trong viên ngọc lưu ly toàn bích. Rồi cứ thế mà vượt lên thứ bậc: thập tín, thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, tứ gia hạnh và thập địa kim cang đạo. Bấy giờ tánh đẳng giác được tròn đầy vào bể Diệu Trang Nghiêm của Như Lai, viên mãn đạo Bồ đề, về đến chỗ “VÔ SỞ ĐẮC”.
****
A Nan ! Những cảnh tướng hiện ra trong lúc tu thiền na, những ý nghĩ rồi sanh khởi sự chấp mắc theo kiến giả của mình lập ra những luận cứ chủ trương: Thần ngã, Minh đế, đoạn, thường, có, không v.v… Tất cả đều gọi chung là “ma sự”, vì có tánh chướng ngại, khuấy phá, cản trở bước tiến của người tu thiền. Chẳng những vậy, nó còn có thể chận đứng lại để rồi bằng lòng với cái tri kiến hạn hẹp, phi chân lý, thành người ngoại đạo hư cháy hạt giống Bồ đề.
Chư Phật Thế Tôn trong quá khứ đã nghiệm xét, phân biệt và đã giác ngộ, chiến thắng với các ma sự mà thẳng tiến trên đường Bồ đề.
Sau Như Lai diệt độ. A Nan ! Các ông phải hướng dẫn cho những người tu tập thiền na học hỏi Phật pháp, nhận rõ các ma sự trong lúc tu chỉ quán thì ấm ma tự tiêu, thiên ma tự biến, đại lực quỷ hoảng sợ chạy trốn, ly mị vọng lượng không sanh ra được.
A Nan ! Bản giác vốn tròn sáng không có tướng sanh tử vãng lai. Vọng thì không có nhân. Khi chưa ra khỏi vọng, nhìn vạn pháp cho đó là nhân duyên sanh. Mê tánh nhân duyên thì gọi là tự nhiên có. Nhân duyên đều là những so đo của vọng tưởng. Bản nhân của ngũ ấm cũng là vọng tưởng như vậy.
A Nan ! Thân thể của ông cũng nhân cái tưởng của cha mẹ mà sinh. Tâm của ông nếu không phải tưởng thì không thể đến gá cái mạng vào trong tưởng. Như Lai đã từng nói: Tâm tưởng vị chua, trong miệng nước bọt chảy ra, tâm tưởng leo cao trong lòng bàn chân nghe ghê rợn. Dốc cao không có, vậy chua chưa đến, thân thể của ông nếu không phải cùng loại với vọng tưởng thì làm sao nhân nghe nói chua trong miệng nước bọt lại chảy
ra ? Vậy nên biết rằng sắc thân hiện tiền của ông gọi là vọng tưởng kiên cố thứ nhất.
Ngay nơi tâm tưởng tượng leo lên cao, có thể khiến thân ông chịu sự ghê rợn, đó là nhân “cảm thọ” mà sinh ra, khiến xúc động đến sắc thân – Nên biết rằng hiện nay hai thứ “thọ”, thọ sung sướng hoặc “thọ” ghê sợ, đang rong ruổi nơi ông, đó là vọng tưởng “hư minh” thứ hai.
Do ý nghĩ sai khiến sắc thân ông, nếu sắc thân không phải cùng loại thì làm sao sắc thân ông lại theo ý nghĩ sai khiến thọ nhận các thứ hình tượng rồi sinh tâm chấp nhận những hình tượng phù hợp với ý nghĩ ! Cái ý nghĩ lúc thức gọi là tưởng, ý nghĩ lúc ngủ thì gọi là mộng. Những vọng tánh lay động mộng tưởng của ông gọi là vọng tưởng hư dung thứ ba.
Sự chuyển hóa không ngừng thầm dời đổi: móng tay ra, tóc dài, khí lực mòn, da mặt nhăn, ngày đêm biến đổi mà không hay biết.
A Nan ! Nếu cái đó không phải là ông thì làm sao thân ông lại thay đổi, nhưng nếu những thứ đó là ông thì sao ông không hay biết ? Vậy các “hành” niệm niệm không dừng của ông, gọi là vọng tưởng u ẩn thứ tư.
Chỗ tinh minh đứng lặng không lay động của ông gọi là thường còn, trong khi thân ông không ra ngoài những sự thấy, nghe, hay, biết. Nếu “cái thường còn” đó, thật là tánh tinh chân của ông thì lẽ ra nó sẽ không huân tập tiếp thu những điều vọng và nếu vậy thì sau những năm về trước ông đã xem thấy một vật lạ, trải qua nhiều năm không hề nghĩ đến, về sau tình cờ gặp lại vật là đó thì nhớ lại rõ ràng ? Vậy nên biết rằng cái tánh tinh minh đứng lặng đó, từng niệm, từng niệm chịu huân tập không thể tính lường hết được. A Nan
! Nên biết cái tánh đứng lặng đó không phải thật, như nước chảy gấp mà trông như đứng lặng vậy thôi, chớ không phải không chảy. Nếu cái tánh đứng lặng của ông không phải vọng tưởng thì đâu lại chịu để vọng tưởng huấn tập vào. Chừng nào mà sáu căn của ông chưa được tự tại, hợp, ly dùng thay lẫn nhau thì cái vọng tưởng đó không lúc nào diệt được. Vậy nên biết rằng cái tập khí quán xuyến, điều khiển những điều thấy, nghe, hay, biết của ông, là cái vọng tưởng điên đảo vi tế huyễn hóa rỗng trống thứ năm.
A Nan ! Năm ấm đó do năm thứ vọng tưởng như thế mà tạo thành. Nay ông muốn biết giới hạn, sâu cạn thì hãy ghi nhớ các tiêu chuẩn nhận thức như vầy:
Sắc và không là biên giới của sắc ấm. Xúc và ly là biên giới của Thọ ấm. Nhớ và quên là biên giới của Tưởng ấm. Diệt và sinh là biên giới của Hành ấm. Đứng lặng hợp với đứng lặng là biên giới của Thức ấm.
Năm ấm ấy trùng điệp sanh khởi. Sanh nhân thức ấm mà có. Diệt từ sắc ấm mà trừ. Lý thì ngộ liền, nhân ngộ mà tất cả vọng tưởng đều tiêu. Sự không thể trừ liền, theo thứ lớp mà diệt.
A Nan ! Như Lai đã chỉ cho ông về cái gút của khăn kiếp ba la đã quá rõ ràng, ông còn
hỏi lại chi nữa ! Tâm ông cần phải thông suốt cội gốc vọng tưởng đó. Rồi đem truyền dạy cho người tu hành hậu thế khiến cho họ biết vọng tưởng là vọng để sanh tâm nhàm chán, và biết có Niết bàn mà không lưu luyến ba cõi.
III – PHẦN LƯU THÔNG
Phật bảo: A Nan ! Giả sử có người đem thất bảo đầy ngập hư không cùng khắp mười phương dâng cúng chư Phật nhiều như số vi trần, mà tâm không lúc nào xao lãng, ý ông nghĩ thế nào ? Người đó do nhân duyên cúng dường Phật như thế, phước đức có nhiều chăng ?
Ông A Nan thưa ! Bạch Thế Tôn ! Hư không vô tận, trân bảo không cùng. Như lời Phật dạy, ngày xưa có chúng sanh cúng Phật chỉ có bảy đồng tiền, vậy mà khi xả thân còn được phước báo làm chuyển luân vương, huống nữa trân bảo vô lượng, cúng dường chư Phật vô lượng khắp mười phương thì dùng trí mà suy nghĩ cùng tột, ức kiếp không thể thấu được, vì phước đức ấy không có ngằn mé !
Phật bảo: A Nan ! Chư Phật Như Lai lời nói không hư vọng, giả sử có người gây đủ các tội: Tứ trọng, thập ác, giây lát phải trải qua địa ngục A tỳ phương nầy sang phương khác cho đến cùng khắp các địa ngục vô gián trong mười phương, nhưng nếu người đó cùng
một niệm đem pháp môn nầy truyền bá cho người chưa học trong đời sau thì tội chướng người đó liền được tiêu hết, biến cái nhân phải chịu khổ ở địa ngục thành cái nhân sanh
về cõi an lạc. Niết bàn, được phúc vượt hơn người bố thí cúng dường trước kia trăm ngàn lần, muôn ức vạn lần cho đến không thể dùng toán số so sánh, không thể có ngữ ngôn nói hết được.
Đức Thế Tôn nói kinh nầy rồi, các vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, tất cả
Trời, Người, A tu la, các vị Bồ tát, Nhị thừa, Thánh Tiên, đồng tử và các đại lực quỷ thần mới phát tâm, đều rất vui mừng lễ Phật mà lui.
PHẦN PHỤ LỤC
QUẢ VÔ THƯƠ.NG NIẾT BÀN CỦA NHƯ LAI CHỈ LÀ KẾT QUẢ CỦA QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH VỚI DỤC VỌNG VÀ CHIẾN THẮNG HOÀN TOÀN BỌN GIẶC CƯỚP PHIỀN NÃO VÔ MINH
I. – MUỐN HIỂU NIẾT BÀN TRƯỚC HẾT CẦN ĐIỀU CHỈNH NHỮNG
QUAN NIỆM NGỘ NHẬN VỀ NIẾT BÀN
Niết bàn là một mục tiêu cần đạt đến của người đệ tử Phật hiếu học, ham tu. Ngộ nhận Niết bàn cũng tức là ngộ nhận mục tiêu mà mình muốn đến. Cho nên người đệ tử Phật muốn hiểu Niết bàn, trước hết cần điều chỉnh những quan niệm ngộ nhận Niết bàn.
* Có người quan niệm Niết bàn là một cảnh giới cách xa với quả địa cầu mà con người
đang sanh sống.
Đức Phật và các hàng đệ tử Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát đều có được Niết bàn ở trên mặt đất nầy. Điều đó nói rất rõ: Rằng Niết bàn không phải là một cảnh giới ở xa.
* Có người hiểu Niết bàn là cảnh giới siêu nhiên, cảnh giới đó không có không gian và thời gian.
Hiểu như vậy thật rất lạ kỳ ! Không có không gian, không có thời gian thì sao gọi là
“cảnh giới” nhỉ ! Cho nên Niết bàn không phải là “cảnh giới” lạ kỳ đó.
Có người quan niệm rằng: Niết bàn là cảnh giới tuyệt đối. Không thể dùng trí của con người mà khái niệm.
Nói như vậy nghe không ổn. Không thể dùng trí của con người khái niệm, vậy “cảnh giới tuyệt đối Niết bàn đó có” để làm gì ? Nó sẽ phục vụ cho ai, khi con người không thể khái niệm ?
Tệ hơn hết là hạng người cho rằng Niết bàn vẫn còn dục vọng ái ân, tình tứ cho nên họ vắt óc nặn ra cái quái thai “Niết bàn rực cháy” với cốt truyện nhố nhăn, dụng ý bôi bác Niết bàn Phật.
Đó là những nhận thức sai lầm đã có, đang có và mãi mãi sẽ còn có.
II. – HIỂU ĐÚNG NGHĨA NIẾT BÀN
MỚI TÌM THẤY VÀ BIẾT ĐƯƠ.C NIẾT BÀN
Niết bàn không phải là một cảnh giới, bất cứ với dạng cảnh giới nào.
Niết bàn sẽ không có ở đâu hết, nhưng Niết bàn cũng sẽ ở tất cả mọi nơi chốn. Niết bàn có, hay không có, tùy thuộc ở con người, chớ không do cảnh Niết bàn có, hay không có.
Bởi vì, Niết bàn là gì ?
Niết bàn là dịch âm của chữ NIRVANA, chữ Phạn. Với cái âm NIRVANA cho nên có nhà Phật học dịch là Niết bàn na.
YÙ nghĩa của chữ Niết bàn, luận Bà Sa định nghĩa:
NIẾT có nghĩa là ra khỏi. BÀN có nghĩa là rừng ngũ uẩn. Ra khỏi rừng ngũ uẩn là có
Niết bàn.
NIẾT là không. BÀN là dệt. Không dệt thêm phiền não là có Niết bàn. NIẾT là không. BÀN là hậu hữu. Không còn hậu hữu là có Niết bàn. NIẾT là xa lìa. BÀN là ràng buộc. Xa lìa sự ràng buộc là Niết bàn. NIẾT là vượt qua. BÀN là khổ nạn. Vượt qua hết khổ nạn là Niết bàn. Theo Kinh Đại Niết Bàn định nghĩa:
NIẾT là không. BÀN là phiền não che chướng. Không phiền não che chướng là Niết bàn. NIẾT là không. BÀN là tham tài. Không tham tài là Niết bàn.
NIẾT là không. BÀN là tham sắc. Không tham sắc là Niết bàn. NIẾT là không. BÀN là tham danh. Không tham danh là Niết bàn. NIẾT là không. BÀN là tham lợi. Không tham lợi là Niết bàn.
NIẾT là không. BÀN là sân nộ. Không sân nộ là Niết bàn.
NIẾT là không. BÀN là si ám. Không si ám là Niết bàn. NIẾT là không. BÀN là mạn. Không mạn là Niết bàn.
NIẾT là không. BÀN là do dự trước lẽ phải, điều thiện. Không do dự trước lẽ phải, điều thiện là có Niết bàn.
NIẾT là không. BÀN là nhận thức sai chân lý. Không nhận thức sai chân lý là có Niết bàn.
NIẾT là không. BÀN là phẫn nộ. Không phẫn nộ là Niết bàn. NIẾT là không. BÀN là hờn mát. Không hờn mát là có Niết bàn.
NIẾT là không. BÀN là che dấu tội lỗi. Không che dấu tội lỗi là có Niết bàn. NIẾT là không. BÀN là rầu rĩ. Không rầu rĩ là có Niết bàn.
NIẾT là không. BÀN là ganh ghét. Không ganh ghét là Niết bàn. NIẾT là không. BÀN là keo kiết. Không keo kiết là Niết bàn. NIẾT là không. BÀN là lừa đảo. Không lừa đảo là Niết bàn.
NIẾT là không. BÀN là dua nịnh. Không dua nịnh là có Niết bàn. NIẾT là không. BÀN là hãm hại. Không hãm hại là có Niết bàn. NIẾT là không. BÀN là kiêu căng. Không kiêu căng là có Niết bàn.
NIẾT là không. BÀN là không biết tự hổ với lương tâm. Không có cái tánh không biết tự
hổ với lương tâm là có Niết bàn.
NIẾT là không. BÀN là không biết nhục trước người khác. Không có tánh không biết nhục trước người khác là có Niết bàn.
NIẾT là không. BÀN là hốp tốp, vội vã. Không hốp tốp, vội vã là có Niết bàn. NIẾT là không. BÀN là ám độn, đờ đẫn. Không ám độn, đờ đẫn là có Niết bàn.
NIẾT là không. BÀN là không có đức tin. Không có cái không có đức tin là có Niết bàn.
NIẾT là không. BÀN là lười biếng. Không lười biếng là có Niết bàn.
NIẾT là không. BÀN là buông lung ba nghiệp. Không buông lung ba nghiệp là có Niết bàn.
NIẾT là không. BÀN là quên hết, đầu óc trống rỗng. Không có quên hết, đầu óc trống rỗng là có Niết bàn.
NIẾT là không. BÀN là nghĩ ngợi lăng xăng. Không nghĩ ngợi lăng xăng là có Niết bàn. NIẾT là không. BÀN là hiểu biết không đúng. Không hiểu biết không đúng là có Niết
bàn.
NIẾT là không. BÀN là mừng thái quá. Không mừng thái quá là có Niết bàn. NIẾT là không. BÀN là giận. Không có giận là có Niết bàn.
NIẾT là không. BÀN là thương thái quá. Không thương thái quá là có Niết bàn. NIẾT là không. BÀN là sợ sệt. Không sợ sệt là có Niết bàn.
NIẾT là không. BÀN là yêu thái quá. Không yêu thái quá là có Niết bàn. NIẾT là không. BÀN là ghét. Không ghét là có Niết bàn.
NIẾT là không. BÀN là ham muốn. Không ham muốn là có Niết bàn.
Lại nữa, chữ Niết bàn còn được dịch là: VIÊN TỊCH, DIỆT ĐỘ, BẤT SANH, TỊCH DIỆT, AN LẠC, GIẢI THOÁT.
VIÊN TỊCH có nghĩa là vô lượng công đức lành đều viên mãn, vô lượng phiền não đều vắng lặng.
DIỆT ĐỘ có nghĩa là diệt hết mọi người nguyên nhân sanh tử, ưu bi, khổ não, và vượt qua các khổ não, sanh tử, ưu bi ấy.
BẤT SANH nghĩa là thể nhập được chân lý bất sanh của hiện tượng vạn pháp.
TỊCH DIỆT có nghĩa là đã diệt hết cái quan niệm sanh diệt của hiện tượng vạn pháp. AN LẠC nghĩa là luôn luôn ở trong trạng thái tịnh lạc khinh an.
GIẢI THOÁT có nghĩa là cởi bỏ hết phiền não, xa lìa hết các buộc ràng.
NIẾT BÀN có nhiều ý như vậy. Tuy nhiên, ý nghĩa của Niết bàn dù diễn đạt chi li hay súc tích khái quát, người đệ tử Phật vẫn hiểu đó là đức GIẢI THOÁT trong ba đức: PHÁP THÂN, BÁT NHÃ và GIẢI THOÁT của một đấng Thế tôn.
III. – NIẾT BÀN KHÔNG PHẢI LÀ MỘT CẢNH GIỚI DÀNH ĐỂ CHO MỘT HẠNG NGƯỜI
Như ta đã biết, Niết bàn chỉ là kết quả của sự đấu tranh và chiến thắng. Mà đấu tranh thì có thể tích cực hoặc chưa tích cực. Chiến thắng cũng có thể toàn diện hoặc cũng có thể còn đang trên đà chiến thắng. Do vậy mà quả Niết bàn có bốn bậc khác nhau.
1/- TỰ TÁNH BẢN LAI THANH TỊNH NIẾT BÀN
Giáo lý của đạo Phật dạy rằng: Tự tánh của con người vốn thanh tịnh. Tánh thanh tịnh đó
được gọi là Niết bàn. Và Niết bàn chính là cái tự tánh bản lai thanh tịnh đó.
Phật dạy rằng: Con người có thể có phiền não, bị phiền não tác động hoành hành, khi con người mất tự chủ, quên cảnh giác đối với cái tâm tánh thanh tịnh vốn có của mình. Dù
vậy phiền não có đến rồi phải đi, ví như khách, tung lên rồi phải lắng xuống, ví như trần. Phiền não đối với tự tánh bản lai thanh tịnh Niết bàn của con người, chúng chỉ là thứ “khách trần” mà thôi.
2/- HỮU DƯ Y NIẾT BÀN
Do công phu tu tập, đấu tranh với dục vọng, hóa giải từng phần lượng phiền não vô minh mà có được Niết bàn, tức là có được sự thanh tịnh tự thân tâm, sự khinh an, giải thoát mọi khổ đau, ràng buộc trong cuộc sống của đời mình. Được sự khinh an, giải thoát của Niết bàn mà cái thân hữu lậu hãy còn vẫn là chỗ sở y cho dòng sinh mệnh, gọi đó NIẾT BÀN HỮU DƯ Y.
3/- VÔ DƯ Y NIẾT BÀN
Diệt phiền não vô minh, chiến thắng liệt oanh với dục vọng, hiện đời đã được Niết bàn, các nguyên nhân hữu lậu ở đời sau cũng cắt đứt và cái thân sở y của dòng sinh mệnh cũng chết mất đi không còn hiện hữu, gọi đó là NIẾT BÀN VÔ DƯ Y.
4/- VÔ TRỤ XỨ NIẾT BÀN
Thứ Niết bàn nầy ở mọi chốn nơi, ở mọi hoàn cảnh, ở ngay trong sanh tử mà không rời
Niết bàn.
Người nhị thừa, tức hàng Thanh văn, Duyên giác chỉ chiến thắng được “phiền não chướng” mà có được Niết bàn, cho nên ham trụ Niết bàn mà chán sợ sinh tử.
Phật quả, ở địa vị Phật chiến thắng hoàn toàn “phiền não chướng” và tiêu trừ tận gốc rễ “sở tri chướng”. Cho nên dùng Phật nhãn mà quan sát thì: phiền não tức Bồ đề, sanh tử tức Niết bàn. Vì Niết bàn ở trong sanh tử cho nên ở trong sanh tử làm lợi lạc chúng sanh mà không chánh sanh tử, cũng không ham trụ Niết bàn, gọi đó là NIẾT BÀN VÔ TRỤ
XỨ.
Qua nhận thức trên ta thấy Niết bàn chỉ là kết quả của quá trình đấu tranh với dục vọng và chiến thắng từng phần đối với những thứ giặc phiền não vô minh. Chừng nào diệt trừ tận gốc rễ phiền não, chiếu phá hoàn toàn sạch hết bóng tối vô minh thành tựu quả Đại Giác. Thế Tôn, bấy giờ mới long trọng tuyên bố: Rằng Như Lai đã chứng đắc QUẢ NIẾT BÀN VÔ THƯƠÏNG.
Viết tại HUỲNH MAI TỊNH THẤT Ngày 20 tháng 12 năm 1990
Trang: 1  2  3  4  5  6  8  9  10

SHARE THIS

Author:

Etiam at libero iaculis, mollis justo non, blandit augue. Vestibulum sit amet sodales est, a lacinia ex. Suspendisse vel enim sagittis, volutpat sem eget, condimentum sem.

0 nhận xét:

* Quý vị có thể để lại nhận xét, cảm nhận dưới mỗi bài viết nhưng:
- Không bàn luận đến chính trị của các quốc gia trên thế giới.
- Không được bàn luận hay phỉ báng bất kỳ tôn giáo nào khác.
- Không bàn luận tới sắc tộc gây chia rẽ các dân tộc trên toàn thế giới.
- Không viết những lời thô tục
- Không xúc phạm, chửi bới người khác
- Không đặt liên kết tới những Website đen, có chứa Vi rút hay những phần mềm có chứa mã độc hại
+ Chỉ bàn luận những lĩnh vực liên quan tới Phật Giáo.
+ Hãy giới thiệu Website này tới những người thân, bạn bè của quý vị. Những người không theo, sẽ theo và đã theo Đạo Phật đều có thể xem và tim hiểu trên Website này.
* Hướng dẫn viết nhận xét:
+ Viết nhận xét, cảm nghĩ vào ô bằng Tiếng Việt có dấu
+ Nhận xét với tư cách: Vui lòng nhấp vào lựa chọn trong thanh thả ( Nếu bạn có 1 blog thì hãy đăng nhập, nếu không có thì chọn Ẩn danh)
+ Cuối cùng thì kiểm tra nhận xét và nhấp vào nút: Đăng Nhận xét
* Trân trọng cám ơn!